Một vài điều về Yên Bái
Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng. Phía đông bắc, Yên Bái giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn.
Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600 mét so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi.
Do địa hình và thời tiết đã tạo cho Yên Bái có các loại rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Đất rừng màu mỡ, thuận lợi cho phát triển chăn nuôi và trồng rừng sản xuất nguyên liệu giấy. Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng Tây Bắc. Dưới bàn tay lao động cần cù của người dân Yên Bái đã tạo ra nhiều sản vật có giá trị như: chề, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn. Trong lòng đất có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú, trữ lượng lớn với nhiều mỏ kim loại, mỏ nguyên liệu, khoáng sản phi kim; đặc biệt là các mỏ thạch anh, đá fenspat, đá trắng phục vụ chế biến nguyên liệu sản xuất công nghiệp có chất lượng hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng hệ thống hồ đầm, Yên Bái còn có hồ Thác Bà - hồ nước được tạo nên bởi bàn tay con người có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, trên đó có 1.300 đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 3–3,9 tỷ m³ nước là điều kiện để phát triển nguồn thuỷ sinh vật và là nguồn năng lượng phục vụ hoạt động của Nhà máy thuỷ điện Thác Bà - Công trình thuỷ điện đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam. Hồ Thác Bà cùng với những tiểu vùng khí hậu, các lễ hội, di tích danh thắng của Yên Bái đang trở thành điểm đến của du khách gần xa.
Điều kiện tự nhiên
Yên Bái là tỉnh nằm sâu trong nội địa nhưng lại là cửa ngõ của miền Tây Bắc, là đầu mối giao thông giữa đông bắc và tây bắc, giữa cửa khẩu Lào Cai và Hà Nội. Phía bắc tỉnh Yên Bái giáp Lào Cai, Hà Giang, phía tây nam giáp Sơn La, phía đông giáp Tuyên Quang, phía nam giáp Phú Thọ.
Địa hình của tỉnh gồm có núi, đồi và thung lũng. Hệ thống sông suối chằng chịt lắm thác ghềnh. Khí hậu chia làm hai vùng, vùng thấp và vùng cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 18ºC – 28ºC.
Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch
Yên Bái là tỉnh có nhiều dải rừng lớn. Rừng có nhiều gỗ quí như pơmu, lát hoa, chò chỉ... Nhiều cây dược liệu và nhiều loại động vật quí hiếm. Sản vật của tỉnh Yên Bái là quế Văn Yên, chè Suối Giàng, nếp Tú Lệ. Yên Bái có mỏ đá quí nổi tiếng Lục Yên.
Thành phố Yên Bái là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Tỉnh Yên Bái có nhiều di tích lịch sử văn hóa đặc biệt là hồ Thác Bà, một trung tâm sinh thái, giải trí, leo núi, khám phá rừng tự nhiên. Thắng cảnh Yên Bái còn giữ được nhiều vẻ hoang sơ, môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm rất hấp dẫn đối với khách du lịch.
Giao thông
Thành phố Yên Bái cách Hà Nội khoảng 180km.Tỉnh nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội – Yên Bái – Lào Cai. Tỉnh có quốc lộ 32 đi Lào Cai, Phú Thọ, quốc lộ 37 đi Tuyên Quang.
Theo Tổng cục Du Lịch
LỊCH SỬ YÊN BÁI
Từ rất xa xưa Yên Bái đã là một bộ phận của Tổ quốc. Thời các vua Hùng, Yên Bái thuộc Tân Hưng, thời Lý thuộc Châu Đăng, thời Trần trong lộ Quy Hóa, thời Lê đến thời Nguyễn nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.
Vào cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành “bình định” nước ta, chúng đặt Yên Bái thuộc các đạo quan binh (1891 – 1900). Ngày 11- 4 - 1900, thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920, Pháp chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái. Từ đó cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, địa dư và các đơn vị hành chính tỉnh Yên Bái không thay đổi.
Tháng 5 – 1955, các châu Văn Chấn, Than Uyên chuyển thuộc khu tự trị Thái – Mèo; một phần huyện Than Uyên và các xã Nậm Có, Khau Phạ (Văn Chấn) được tách ra thành lập châu Mù Cang Chải. Tháng 6 – 1956, huyện Yên Bình (tỉnh Tuyên Quang) sáp nhập vào tỉnh Yên Bái. Tháng 10 – 1962, Quốc hội quyết định đổi tên khu tự trị Thái – Mèo thành khu tự trị Tây Bắc và thành lập các tỉnh trực thuộc. Ngày 24 – 12 – 1962, tỉnh Nghĩa Lộ (thuộc khu tự trị Tây Bắc) chính thức được thành lập gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phù Yên. Năm 1964, một phần huyện Văn Chấn được tách ra thành lập huyện Trạm Tấu. Đầu năm 1965, khu vực thượng huyện Lục Yên được tách ra thành lập huyện Văn Yên. Tháng 10-1971, Chính phủ thành lập thị xã Nghĩa Lộ. Ngày 3-1-1976, hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ hai huyện Bắc Yên và Phù Yên chuyển thuộc tỉnh Sơn La) và Lào Cai thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 1-10-1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Các huyện Than Uyên, Văn Bàn và Bảo Yên trước đây thuộc tỉnh Yên Bái chuyển thuộc tỉnh Lào Cai.
Truyền thống văn hóa: các phát hiện di cốt người hiện đại có niên đại 8-14 vạn năm ở hang Hùm (Lục Yên), thạp đồng Đào Thịnh, thạp đồng Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Phù Nham (Văn Chấn), Mông Sơn (Yên Bình), Khai Xuân (Lục Yên) và nhiều công cụ bằng đá, bằng đồng khẳng định mảnh đất Yên Bái là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hóa phát triển liên tục và khá rực rỡ.
Yên Bái cũng là vùng có nhiều dân tộc sinh sống lâu đời, hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1258 nhân dân các vùng Văn Chấn, Trấn Yên đã tham gia đội quân của tù trưởng Hà Bổng, trại chủ Quy Hóa chiến đấu chống giặc Mông-Nguyên khi chúng sang xâm lược nước ta lân fth]s nhất. Năm 1285, nhân dân châu Thu Vật (Yên Bình) và các vùng xung quanh đã ủng hộ, giúp đỡ đạo quân của tướng Trần Nhật Duật chặn đánh quân Nguyên Mông quyết liệt, làm chậm bước tiến của chúng về kinh thành Thăng Long.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX nhân dân các dân tộc Yên Bái đã góp phần không nhỏ bảo vệ triều Lê, chống họ Mạc cát cứ và sự cướp bóc của “giặc giã”.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng, nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Đầu nmaw 1886, quân Pháp đánh chiếm Yên Bái. Tổng đốc Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích, bố chánh Nguyễn Văn Giáp phối hợp cùng các lãnh đạo địa phương như Vương Văn Doãn phối hợp cùng các lãnh đạo địa phương như Vương Văn Doãn, Đặng Đình Tế, Phạm Thọ, Đặng Tiến Lộc, Đổng Phúc Thịnh tổ chức đánh chặn địch quyết liệt; xây dựng căn cứ chiến đấu ở Tú Lệ (Văn Chấn), làng Vần (Trấn Yên) gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 19-10-1889, nghĩa quân đánh tan cả đoàn thuyền địch gồm 13 chiếc trên sông Hồng, đoạn giữa Trái Hút và Bảo Hà.
Từ Năm 1886 đến năm 1898, các hoạt động bất hợp tác với giặc, nhiều cuộc khởi nghĩa nhỏ liên tục nổ ra khắp các vùng Trấn Yên, Văn Chấn, Lục Yên, Yên Bình, gây ra cho thực dân Pháp nhiều khó khăn trong việc thiết lập bộ máy thống trị và kiểm soát các tổng, xã.
Năm 1913-1914, cuộc khởi nghĩa do Triệu Tài Lộc, Triệu Kiến Tiên và một số thủ lĩnh khác tổ chức được đông đảo người Dao, Tày, Kinh tham gia, ủng hộ. Từ cơ sở đầu tiên ở tổng Trúc Lâu, phong trào lan rộng khắp châu Lục Yên, phủ Trấn Yên, phủ Yên Bình với tổng số 1.414 người. Nghĩa quân đã tiến công đồn Trái Hút (19-10-1914), đồn Bảo Hà (21-10-1914), đồn Lục Yên (22-10-1914). Nhưng do tổ chức, phối hợp thiếu chặt chẽ, trang bị vũ khí lạc hậu, thiếu thốn cho nên các cuộc tiến công không giành được thắng lợi. Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa, bắt hàng trăm người, trong đó có rất nhiều phụ nữ, xử tử 67 người (39 người ở nghĩa địa Tây Yên Bái, 28 người ở Phú Thọ). Đây là sự kiện tiêu biểu khẳng định lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quận khởi của nhân dân các dân tộc Yên Bái.
Khi thực dân Pháp tiến hành khai thác, cướp bóc thuộc địa, đặc biệt là việc chúng cướp ruộng đất, lập đồn điền, nông dân các xã Mông Sơn, Ẩm Phước (phủ Yên Bình), Nga Quán, Cổ Phúc (phủ Trấn Yên) và nhiều nơi khác đã liên tục đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, cướp ruộng đất, làm cho thực dân Pháp rất lúng túng, lo sợ và bất ổn định.
Trong bối cảnh đó, đầu năm 1930 trên địa bàn Yên Bái đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của tổ chức Việt Nam Quóc dân Đảng, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa không thành, do không đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân bị áp bức đứng lên giải phóng. Mặc dù bị thất bại, nhưng tinh thần yêu nước, bất khuất, kiên cường của các nghĩa sĩ trước sự khủng bố, đàn áp dã man của kẻ thù đã thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc Yên Bái đứng lên đấu tranh giành độc lập. Đó là những sự kiện lịch sử tiêu biểu, thể hiện truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết quật khởi của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái. Truyền thống đó được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã mở ra một trang sử mới cho lịch sử cách mạng Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước của nhân dân các dân tộc Yên Bái.
Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, những cán bộ cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ được cử lên Yên Bái hoạt động và đã xây dựng được một số cơ sở cách mạng ở huyện Trấn Yên và thị xã Yên Bái. Với truyền thống yêu nước, tinh thần quật cường chống ngoại xâm của nhân dân các dân tộc Yên Bái từ tháng 10-1944 đến đầu năm 1945, nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng, phát triển ở các huyện trong tỉnh, các tổ chức cứu quốc được thành lập, tập hợp hàng ngàn hội viên. Dau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), khí thế cách mạng của quần chúng khắp nơi trong tỉnh dâng cao. Để đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Yên Bái, ngày 7-5-1945, Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở thị xã Yên Bái. Ngày 30-6-1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã quyết định thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái – Phú Thọ do đồng chí Ngô Minh Loan làm bí thư. Sự kiện thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái – Phú Thọ đã mở ra một bước ngoạt mới cho phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương.
Cùng với cả nước, từ thân phận của dân tộc đói nghèo, lạc hậu bị áp bức, nô lệ, cuộc Cách mạng Tháng tám năm 1945 đã thổi bùng lên ngọn lửa Yêu nước, tinh thần bất khuất, quật cường của đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái.
Ngày 22-8-1945, tại vườn hoa tỉnh lỵ Yên Bái gần một vạn người về dự mít tinh đã chừng kiến sự kiện lịch sử quan trọng: Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái được thành lập, tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, công bố chính sách của Mặt trận Việt Minh, kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, ủng hộ giúp đỡ, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng, vượt mọi khó khăn, gian khổ từng bước xây dựng cuộc sống đổi mới. Yên Bái bước sang trang sử mới.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc phát huy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết, thống nhất phấn đấu thực hiện lý tưởng cao cả của Đảng, của Bác Hồ kính yêu: hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những ngày đầu thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh, tiếp thu gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại: công nghiệp phá sản, nông nghiệp đình đốn, tài chính kiệt quệ, nạn đói đe dọa trầm trọng, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội nặng nề...nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, chính quyền công nông non trẻ vẫn đứng vững, chống lại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của bọn phản cách mạng; lãnh đạo nhân dân các dân tộc động viên cao độ sức người, sức giải phóng quê hương, cùng cả nước góp phần làm nên Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Yên Bái tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường trong chiến tranh cách mạng, đem hết sức lực, trí tuệ vượt qua khó khăn, chiến đấu bảo vệ quê hương, khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh; cùng cả nước chi viện cho Miền Nam, góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trước bộn bề khó khăn cả trong nước và quan hệ quốc tế vào thời điểm đó, cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trên cả nước, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh từng bước giành được những thành tựu quan trọng, đẩy lùi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đưa cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (1991) mặc dù phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, trước tình hình thế giới diễn ra phức tạp, cùng với những khó khăn của một tỉnh miền núi nghèo, kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, trình độ dân trí thấp và không đồng đều, đời sống của nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn; song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực cánh sinh, huy động tối đa nội lực, kiên quyết chống lại tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, bao cấp, huy động và tranh thủ mọi nguồn lực để đầu tư phát triển, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc, lấy công nghiệp và du lịch làm khâu đột phá để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, tình đoàn kết dân tộc, đức tính lao động cần cù, sáng tạo. Đây là những giá trị tinh thần bền vững mà Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã kế thừa, phát huy cao độ trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa trên quê hương mình.LỊCH SỬ YÊN BÁI
Yên Bái – Địa chất và các dấu tích cổ
Các vùng đất tạo nên tỉnh Yên Bái về phương diện địa chất là tối cổ. Vào thời kỳ tiền Cambri, các đá cổ nhất đã nhô lên dọc lưu vực sông Hồng (đá phiến kết tinh hoặc biến chất phức hệ sông Hồng, đá phiến biến chất tuổi Thái Cổ và Nguyên Sinh, tồn tại trên 1.200 triệu năm) phân thành hai dải nằm giữa sông Hồng và sông Lô từ Lào Cai về Yên Bái và dọc 2 bờ sông Chảy. Ngoài đất đá cổ sinh, trung sinh còn có đất đá tân sinh - bao gồm hai kỷ đệ tam và đệ tứ, có tuổi khoảng 50 triệu năm, phân bố dọc sông Hồng, sông Lô.
Vào cuối Cambri sớm, chuyển động nâng đã diễn ra trong phạm vi khu vực. Ở đây, chu kỳ trầm tích từ Cambri đến Ôđôvic sớm tạo ra lớp cuội sỏi kết ở nhiều nơi trên dãy Hoàng Liên Sơn. Bước sang giai đoạn Ôđôvic - Silua, chế độ kiến tạo ngày càng bị phân dị mạnh mẽ hơn. Các vùng đất tạo nên Yên Bái nằm trong miền uốn nếp Bắc Bộ, hệ uốn nếp Tây Bắc, đới phức nếp lồi sông Hồng kéo thành một dải từ biên giới Việt Trung tới Việt Trì thì chìm xuống dưới các lớp phủ đệ tứ của đới Hà Nội, ở phía Tây Nam còn có máng chồng Tú Lệ và dưới Nam có võng Sông Đà.
Trong thời kỳ vận động tạo núi, các trầm tích lắng đọng đã tạo ra khu vực này những nếp uống khổng lồ kèm theo hàng loạt những đứt gãy chờm nghịch làm cho đá vôi tầng giữa có tuổi cổ hơn lại nằm chờm lên đá phiến - đá vôi tầng trên có tuổi trẻ hơn. Thời kỳ tạo núi, xuất hiện nhiều hiện tượng xâm nhập mắc ma làm cho đá trong vùng bị biến chất và đến đại trung sinh, cách đây 30 triệu năm, quá trình này coi như đã chấm dứt. Tuy các khối đá xâm nhập vẫn còn hung hãn tìm cách chọc xiên qua nhiều nơi ở dải Hoàng Liên Sơn và xà Phình - Púng Luông. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, các đá này đều có lớp vỏ phong hóa khá dày ở chân núi. Các sườn dốc, nước bề mặt hoạt động mạnh đã làm cho đá gốc lộ trơ trụi khiến cho đỉnh núi lởm chởm như răng cưa.
Đến vận động tạo núi tân sinh tuy không mãnh liệt nhưng nó vẫn đủ mạnh để đội cao chỗ này, làm đứt gãy chỗ khác. Sông suối bị đào xẻ xuống rất sâu. Các vận động tạo núi và đặc tính của đá không đồng nhất trên những khoảng ngắn càng làm cho hướng và chiều rộng của thung lũng thay đổi một cách bất ngờ.
Nhìn chung rừng ở đây xuất hiện nhiều dạng khá đặc sắc. Nhiều loại cây lẽ ra chỉ thấy ở phương Nam nhưng cũng có mặt ở đây như gụ, săng lẻ, kền kền. Từ độ cao 700 - 1.800m rừng á nhiệt đới núi cao đã xuất hiện những loại cây họ sồi, dẻ và họ dổi cùng một số cây lá kim. Ở những vùng có khí hậu khô hơn thì rừng bớt rậm rạp và thường rụng lá vào mùa hanh. Lên cao hơn nữa là rừng lãnh sam.
Động vật khá phong phú với sơn dương, mèo rừng, gấu, nai, hoẵng, hổ, báo... Trong các loại hóa thạch tìm được ở Yên Bái, ta còn thấy có voi răng kiếm, gấu tre, đười ươi, khỉ, vượn nhím, dúi, chuột, mèo, chó, lợn, vui, bò rừng.
Vào thời cánh tân, Việt Nam là khu vực lục địa nối liền với vùng đảo Đông Nam Á - một trong các khu vực có khả năng chứng kiến quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
Từ tháng 10/963 đến tháng 12/1964, các nhà khảo cổ học Việt Nam có sự tham gia của chuyên gia cộng hòa Dân chủ Đức - Tiến sỹ H. DKahlke đã phát hiện và khai quật di chỉ hang Hùm (Tân Lập - Lục Yên). Hang Hùm thuộc sơn phận làng Hùm, còn được gọi là Ma Mút, kết quả khai quật cho thấy ở đây có 2 thời kỳ trầm đọng khác nhau: Thời kỳ thứ nhất thuộc hậu kỳ Cánh tân với trầm tích khá rắn màu vàng nhạt; thời kỳ thứ hai thuộc giai đoạn đầu của hậu kỳ Cánh tân với trầm tích không rắn bằng. Giữa đó là thời kỳ xói mòn mạnh cửa sông.
Tại hang Hùm, hàng ngàn hóa thạch của 30 loài động vật được phát hiện trong đó đặc biệt có 3 chiếc răng hàm của người khôn ngoan (Hômô sapiens) cùng các hóa thạch thuộc họ đười ươi (Pông Pygmacus Weidencei Chi HOOI - JHER) các hóa thạch thuộc họ voi răng kiếm (Stegoden orien - talis OWEN), các hóa thạch của báo gấm thuộc họ mèo (Néofilis rebulosa of promigchic HEMMER và V.KOENIG SWALD...).
Trong số mấy ngàn hóa thạch, người ta thấy vắng mặt gấu tre (Ailuropoda mela noleuca fovealis MATTHEW&GRANGER). Tuy thế, hang Hùm vẫn được coi là trung điểm giao lưu của nhiều động vật, thực vật. Việc nghiên cứu quần thể động vật ở đây có tầm quan trọng rất lớn. Việc tìm thấy những chiếc răng hàm của người khôn ngoan sớm đã xác nhận thời đại sơ kỳ đá cũ đã tồn tại và phát triển trên vùng đất của người Yên Bái ngày nay.
Tại hang dưới Thẩm Thoóng (Thượng Bằng La), các nhà khảo cổ học đã phát hiện trong trầm tích có niên đại Cánh tân một công cụ cùng một số hóa thạch của lợn rừng, lợn nòi, hươu... và cho rằng rất gần gũi với hang Hùm.
Từ năm 1979 trở đi, hàng loạt các điểm di tích thuộc văn hóa Sơn Vi được phát hiện với di tích mở đầu là đồi Bách Lẫm (Thị xã Yên Bái). Đồi Bách Lẫm là một đồi đất có độ cao trên 20m, nằm sát mép sông Hồng ớ phía Đông Nam thị xã Yên Bái. Tại đây cuối năm 1979 đã phát hiện được 13 di vật của văn hóa Sơn Vi. Từ đó đến nay đã thu được trên 400 di vật gồm công cụ, phế vật, mảnh tước hạch cuội... Phản ánh đây là vùng cư trú và sản xuất công cụ thời hậu kỳ đá cũ.
Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã phát hiện được gần 50 điểm di tích của văn hóa Sơn Vi, tập trung chủ yếu dọc thung lũng sông Hồng. Các loại hình công cụ đặc trưng của văn hóa Sơn Vi ở Yên Bái là công cụ rìu lưỡi dọc, rìu lưỡi ngang, mũi nhọn, công cụ mảnh tước.... Với kỹ thuật ghè đẽo trực tiếp từ chỗ chỉ ghè vài nhát thô sơ, tạo ra rìa tác dụng ở một hoặc hai cạnh viên cuội để sử dụng trong lao động. Các điểm tiêu biểu ngoài Bách Lẫm có: Xóm Soi (Giới Phiên), Đá Bia (Minh Bảo), Lương Thịnh III (Tân Thịnh), Khe Quỷ (Yên Hợp), bến Mậu A (Mậu A), Đào Thịnh...
Tại hang Nậm Tốc Lù (Cảm Nhân - Yên Bình) nằm trên núi đá vôi theo hướng bắc nam ở độ cao 50m so với mặt thung lũng cũng tìm thấy một số công cụ thuộc văn hóa Hòa Bình.
Như vậy cùng với việc phát hiện hóa thạch răng người cổ, xương răng động vật thế Cánh tân (voi răng kiếm, gấu tre, đười ươi lùn) ở Thầm Ồm - Nghệ An, việc phát hiện răng người khôn ở hang Hùm đã giúp giới sử học Việt Nam đặt ra giả thuyết. Nếu đúng như vậy thì người hiện đại đã xuất hiện rất sớm ở Việt Nam. Lớp trầm tích hang Hùm có niên đại từ 14 đến 8 vạn năm.
Sau hàng chục vạn năm sử dụng công cụ đá cuội, con người đã biết ghè đẽo rộng khắp trên một mặt viên cuội, còn mặt kia giữ nguyên, tạo ra một đặc trưng mới được gọi là văn hóa Hòa Bình.
Văn hóa Hòa Bình xét về mặt địa chất là giai đoạn lịch sử vắt ngang từ cuối Pleixtocene sang đầu Holocene là cầu nối từ hậu kỳ đá cũ sang đá mới. Những dấu tích của văn hóa Hòa Bình phát hiện được ở Yên Bái tuy chưa nhiều, song nó có giá trị xác định sự hiện diện của cư dân văn hóa Hòa bình đã tồn tại ở đây, nó góp phần nối liền văn hóa hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới.
Văn hóa đá mới ở Yên Bái: trong khi chưa tìm thấy các dấu tích của sơ kỳ đá mới (văn hóa Bắc Sơn) thì dường như lại tìm được khá nhiều các dấu tích của giai đoạn hậu kỳ đá mới. Cho đến nay, gần 40 địa điểm của thời kỳ này đã được tìm thấy trên địa bàn của tỉnh với sự phân bố khá rộng rãi mà trọng tâm vẫn nằm ở lưu vực của sông Hồng và sông Chảy. Đặc trưng nổi bật của hậu kỳ đá mới ở đây là những rìu và bôn có vai hay tứ giác, trong đó rìu bôn có vai chiếm tỷ lệ cao hơn (56/16). Quy mô của nhóm công cụ thuộc loại trung bình và nhỏ tồn tại dưới nhiều kiểu loại khác nhau (hai vai, hai vai kép, 1 vai, có vai có nấc...).
Ngoài rìu bôn, ở đây còn phát hiện được những loại hình dị vật khác như chì lưới đá, dao đá, vòng tay, khuyên tai đá... Phản ánh tính phong phú đa dạng của loại hình dị vật và khẳng định kỹ nghệ chế tác đá ở đây đã đạt tới mức hoàn thiện. Đây cũng chính là thời kỳ lịch sử đầu tiên của dân tộc: Thời đại Hùng Vương và An Dương Vương trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Những dấu tích của thời đại kim khí ở Yên Bái cũng rất phong phú, khá độc đáo trong đó nổi bật lên là những thạp và trống đồng mang phong cách văn hóa Đông Sơn.
- Thạp đồng Đào Thịnh: Ngày 16/9/1960 tại thôn Đống Gianh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc xã Đào Thịnh (Trấn Yên) cách thị xã Yên Bái 20 km về phía Bắc và cách mặt nước chừng 2m đã phát hiện được một chiếc thạp đồng - một hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Nếu kể cả lớp đất phủ ở trên, chiếc thạp nằm ở độ sâu 5m. Thạp đồng Đào Thịnh là một chiếc thạp lớn nhất trong sưu tập thạp Việt Nam được biết đến hiện nay. Thạp màu xanh rỉ đồng, nhiều chỗ bị mất hoa văn, đỉnh nắp có một cụm tượng đã bị mất mép, nắp có 4 tượng nam nữ giao hợp chỉ còn hai, nắp thạp hình khum, có đường kính 68cm, cao 17,2cm, bị vỡ nhiều chỗ, có hai quai (bị mất một). Nắp và thân đều có hai cặp quai hình mui thuyền trang trí hoa văn sóng nước. Quai ở thân cách miệng 10,5 cm; quai rộng 2,5cm; đường kính miệng 64cm, nơi phình ra nhất 70cm, đường kính đáy 58cm, cao thân 82 cm, gờ cao 1,5cm. Toàn thạp cao 97,7cm, nặng 76kg.
- Thạp đồng Hợp Minh: Nặng 13,5kg, cao toàn bộ 47,4cm, cao phần thân thạp 41,5cm, đường kính miệng 34,4, đường kính đáy 32,5cm, thân hơi phình ra, thân có dáng thẳng, cân đối, có hai quai hình chữ U ngược.
Ngoài thạp đồng và bộ hài cốt còn thu được đĩa đồng 3 chân, rìu đồng, dao găm đồng, quả thạc đồng, khuyên tai 4 mấu, 3 mảnh gốm miết láng đen. Đặc biệt còn tìm thấy dấu vết của sợi dệt, nan đan.
Thạp đồng Hợp Minh nặng 13,5kg; cao 47,4cm; đường kính miệng 33,6cm; đường kính đáy 34,9cm. Thân phía trên của thạp hơi phình, phía dưới hơi thót, chân đế thẳng, dáng cân đối có 2 quai hình chữ U ngược.
Điều đáng chú ý ở đây là lần đầu tiên ở Việt Nam đã phát hiện được di cốt của người cổ còn nguyện vẹn chôn trong thạp. Di cốt này được giám định là một em bé gái khoảng 4 - 4,5 tuổi.
Những mô típ văn hóa trên thạp Hợp Minh cũng rất tiêu biểu, trên nắp thạp có 4 tượng dạng “chim vịt” gần rìa nắp. Thân thạp có 37 vòng rộng hẹp khác nhau, trong đó có 18 vòng hoa văn, được chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 có 4 cụm hoa văn hình học; Nhóm 2 có 2 vòng hoa văn tả động vật, trên gần miệng thạp là một đàn chim mỏ dài, đuôi xòe trong tư thế co cổ, gồm 19 con. Cả chim và thú đều bay hoặc chạy theo chiều từ trái sang phải; Nhóm 3 có hai vòng hoa văn tả cảnh sinh hoạt của người, vòng trên mô tả một lễ hội trong đó có người hóa trang lông chim múa hát, đánh trống, giã gạo... có cả mô hình nhà sàn, hình thuyền, nhà kho, hình chim, gà trống... Vòng dưới là hình bốn thuyền mũi cong, trên đó có người chèo thuyền, người chỉ huy, mỗi thuyền có 5 - 6 người, trên trời có chim bay, dưới nước có vật hình cá sấu, hình rùa.
Cùng với thạp đồng, tại nhiều nơi trên địa bàn của tỉnh đã phát hiện được trống đồng - Một loại hình di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn.
Cũng tại địa điểm phát hiện thạp đồng Đào Thịnh, ngày 25/9/1962, cụ Doãn Văn Thực đã phát hiện ra trống đồng Đào Thịnh và nhiều đồ vật bằng đồng khác (bình, lọ, tượng cóc, quả cân, dao găm, giáo, lưỡi qua) và các đồ trang sức bằng đá, lọ gồm có văn đan. Những hiện vật này được sắp xếp có chủ ý, theo từng loại khác nhau. Ngoài ra trong trống có đất màu đen, lẫn tro than.
Trống đồng Đào Thịnh thuộc loại trống trung bình, mặt còn nguyên vẹn, tang mất một phần, lưng còn một ít và không còn phần chân, không rõ chiều cao. Trống có 4 đôi quai kép, chỉ còn lại 2 đôi, không có tượng cóc. Mặt trống không chờm khỏi tang, chính giữa là ngôi sao 12 cánh, giữa các cánh là hoa văn hình tam giác có các đường chéo song song. Từ trong ra ngoài mặt trống có 4 vòng hoa văn. Đường kính mặt trống là 49,5cm; Đường kính tang là 57cm; trống cao còn lại 27cm; Tang trống dày 0,25cm. Hoa văn tang trống chỉ còn 2 vòng là hình tam giác gần đáy quay vào nhau bố trí gần mép trống, còn lại để trơn, có bốn đường chỉ nổi chạy song song quanh tang trống. Hoa văn lưng trống gồm 4 cụm hoa văn dọc, cách đều nhau cao 11,5cm và một cụm hoa văn ngang dưới. Hoa văn đơn giản, chỉ là hài đường hình tam giác gần đáy quay vào nhau.
- Trống đồng làng Vạc Minh (Minh xuân - Lục Yên ) phát hiện ngày 25/5/1978 tại gò làng Vặc. Di vật đào được là chiếc trống đồng không nguyên vẹn, mất chân và phần lớn lưng nên không xác định được chiều cao. Trống có bốn quai, chỉ còn hai quai. Mặt trống còn nguyên vẹn, có ba vết thủng nhỏ gần tâm trống, có 4 tượng cóc nhưng đều mất, chỉ còn lại dấu vết chân, cóc quay ngược chiều quay của kim đồng hồ. Mặt trống chờm khỏi tang 1,5cm; Tang không phình mà hơi đứng, lưng thẳng, phía dưới hơi loe ra. Đường kính mặt 64,5cm; Đường kính tang 61,5cm; Đường kính lưng (phần giáp tang) 52,0cm; Tang cao 14,0cm; Mặt dày 0,45cm; Trống cao toàn bộ còn lại 37cm.
- Trống đồng Mông Sơn (Yên Bình): được tìm thấy ngày 15/3/1984 trên một quả gò thuộc địa phận xã Mông Sơn. Di vật là một chiếc trống chôn ngửa do quá trình mưa gió đã lộ ra một phần thân trống.
Trống không còn nguyên vẹn, 4 tượng cóc đã bị cưa mất 3 còn 1. Chân bị vỡ, mặt bị cắt rời khỏi thân, quai chỉ còn một chiếc, trống thủng nhiều chỗ, mặt trống chờm ra ngoài tang, tang không phình, lưng thẳng, chân hơi choãi. Đường kính mặt 56cm, cao còn lại 30 cm.
Hoa văn mặt trống: trung tâm là ngôi sao 12 cánh, giữa các cánh là văn hóa lông công, ngoài là 11 vòng hoa văn. Trong đó vòng 7 từ trong ra là hình chim cách điệu hình trâm, xen kẽ nhau từng đôi một, chim bay theo ngược chiều kim đồng hồ. Gần mép trống có 4 tượng cóc đơn giản cũng quay ngược chiều kim đồng hồ.
Ngoài các di tích kể trên, tại thị xã Yên Bái còn phát hiện được một số đồ đồng tại khu nghĩa trang thuộc bệnh viện tỉnh (rìu đồng, nồi đồng). Ở Trấn Yên còn phát hiện được rìu đồng, giáo đồng (Quy Mông, Báo Đáp). Khu vực Văn Yên cũng tìm được các rìu lưới xéo, rìu xòe cân, nhiều đồ gốm thuộc các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Mậu, Đường Cồ tại các điểm Yên Hưng, Yên Hợp...
Như vậy là các di tích khảo cổ học thuộc nền văn minh sông Hồng của thời đại Hùng Vương đã có mặt khá dày đặc và đầy đủ trên các vùng đất mà sau này hình thành nên tỉnh Yên Bái. Con người ở đây đã rời hang động trong rừng núi đá vôi xuống cư trú ở vùng đồi gò và bờ bãi ven sông Hồng, sông Chảy. Họ khai thác đất đai ven sông, các bãi trũng cạnh đầm hồ và gò đồi để canh tác theo lối đao canh thủy nậu, đao canh hỏa chủng. Họ dùng rìu đá mài, rìu đồng để cuốc đất. Khi kỹ thuật luyện kim phát triển, xuất hiện thêm lưỡi cày, lưỡi cuốc trong sản xuất. Nhiều đồ dùng bằng đồng, bằng gốm ra đời (thạp, bình, lọ, nồi, âu...)
Cây lúa là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Yên Bái thời đại Hùng Vương. Nhiều hoa văn trang trí trên trống đồng, thạp đồng tìm thấy ở vùng này với hình tượng bông lúa, săn bắt và hái lượm. Có nhiều khả năng cư dân ở đây đã biết đến chăn nuôi, đánh cá và trồng một số loại cây ăn quả, cây lấy sợi... từ rất sớm.
Nghề đúc đồng khá phát triển. Người thợ đúc ở đây tỏ ra có tay nghề cao khi họ tiến hành đúc thạp đồng Đào Thịnh, thạp đồng Hợp Minh cùng các trống đồng làng Vặc, Mông Sơn, Phù Nham, bản Lải, Đảo Đình. Để có được những báu vật trên, những người thợ này đã phải dựng lên nhiều lò nấu đồng, tạo ra nhiều khuôn đúc bằng đất khá lớn.
Nghề gốm cũng phát triển. Nhiều công cụ và đồ trang sức chế tạo từ đá spilitquacdit, amphibôlit và neepherit là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương. Họ dùng ngay các công cụ bằng đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng.
Những di vật đã tìm được trên đất Yên Bái cho thấy trình độ hiểu biết về nghệ thuật của con người trong thời đại Hùng Vương khá cao. Ngoài lối trang trí bằng hóa văn kỷ hà thì mảng nghệ thuật vẽ hình theo chủ đề khá phát triển. Con người thể hiện trên thạp đồng, trống đồng hòa vào giới động vật xung quanh (hươu, hổ, chim, cá) hoặc các dụng cụ (thuyền bè, giáo, rìu, cung tên) các cảnh vui chơi....
Những bức tượng trên thạp và trống đồng của các nghệ nhân thời đại Hùng Vương để lại là những chuẩn mực về phản ánh hiện thực của thời tiền sử qua nghệ thuật chạm khắc.
Từ những di chỉ, di vật đã được phát hiện bước đầu cho chúng ta nhận biết về một chặng đường kéo dài hàng chục vạn năm, từ thời đại đồ đá cũ đến thời đại kim khí trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Chứng tỏ Yên Bái nằm trong khu vực địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của người Việt cổ trên đất nước ta.GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TỈNH YÊN BÁI
I. Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là 1 trong 13 tỉnh vùng núi phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn (159 xã và 21 phường, thị trấn); trong đó có 70 xã vùng cao và 62 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải (đồng bào Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả nước.. Yên Bái là đầu mối và trung độ của các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lào Cai, là một lợi thế trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, với các thị trường lớn trong và ngoài nước.
2. Đặc điểm địa hình
Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc – Đông Nam: phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy, phía Đông có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600 m trở lên, chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khoáng sản, có khả năng huy động vào phát triển kinh tế - xã hội. Vùng thấp có độ cao dưới 600 m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
3. Khí hậu
Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 22 - 230C; lượng mưa trung bình 1.500 – 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình 83 – 87%, thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm nghiệp. Dựa trên yếu tố địa hình khí hậu, có thể chia Yên Bái thành 5 tiểu vùng khí hậu. Tiểu vùng Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900 m, nhiệt độ trung bình 18 – 200C, có khi xuống dưới 00C về mùa đông, thích hợp phát triển các loại động, thực vật vùng ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – nam Văn Chấn, độ cao trung bình 800 m, nhiệt độ trung bình 18 – 200C, phía Bắc là tiểu vùng mưa nhiều, phía Nam là vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát triển các loại động, thực vật á nhiệt đới, ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ, độ cao trung bình 200 – 400 m, nhiệt độ trung bình 21 – 320C, thích hợp phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm, chè vùng thấp, vùng cao, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Tiểu vùng nam Trấn Yên, Văn Yên, thành phố Yên Bái, Ba Khe, độ cao trung bình 70 m, nhiệt độ trung bình 23 – 240C, là vùng mưa phùn nhiều nhất tỉnh, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây ăn quả. Tiểu vùng Lục Yên – Yên Bình độ cao trung bình dưới 300 m, nhiệt độ trung bình 20 – 230C, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh, có hồ Thác Bà rộng 19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch.
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 689.949,05 ha. Trong đó diện tích nhóm đất nông nghiệp là 549.104,31 ha, chiếm 79,59% diện tích đất tự nhiên; diện tích nhóm đất phi nông nghiệp là 47.906,46 ha chiếm 6,94%; diện tích đất chưa sử dụng là 92.938,28 ha chiếm 13,47%. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì đất sản xuất nông nghiệp là 77.618,58 ha; đất lâm nghiệp 469.968,24ha; đất nuôi trồng thủy sản 1.420,04ha, còn lại là đất nông nghiệp khác. Trong tổng diện tích đất phi nông nghiệp thì đất ở 4.482,82 ha; đất chuyên dùng 31.604,98 ha, còn lại là đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất chưa sử dụng thì đất bằng chưa sử dụng là 949,00 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là 85.936,52 ha, còn lại là núi đá không có rừng cây.
Đất Yên Bái chủ yếu là đất xám (chiếm 82,37%), còn lại là đất mùn alít, đất phù sa, đất glây, đất đỏ…
2. Tài nguyên rừng
Tính đến tháng 6 năm 2009, diện tích đất có rừng toàn tỉnh Yên Bái đạt 400.284,6 ha, trong đó: rừng tự nhiên 231.901,6 ha, rừng trồng 168.382,7 ha; đạt độ che phủ trên 56%.
Yên Bái có nhiều loại rừng khác nhau như: rừng nhiệt đới, á nhiệt đới, và núi cao. Trong khu vực rừng á nhiệt đới của tỉnh có nhiều loại cây lá kim (như: pơmu, thông nàng, thông tre lá lớn, sa mộc, sam mộc) xen lẫn cây lá rộng thuộc họ sồi dẻ, đỗ quyên. Ở độ cao trên 2000m, rừng hỗn giao giảm dần, pơmu mọc thành rừng kín cao tới 40-50m, đường kính thân có cây tới 1,5m. Cao hơn nữa là những cánh rừng thông xen kẽ các tầng cây bụi nhỏ rồi đến trúc lùn, cậy họ cói, cậy họ hoa hồng, cây họ thạch nam, cây họ cúc, cây họ hoàng liên xen kẽ. Lùi dần về phía đông nam, độ cao hạ dần, khí hậu ấm áp hơn làm cho lớp phủ thực vật rừng có điều kiện phát triển. Bên cạnh các loại gỗ quý (nghiến, trúc, lát hoa, chò chỉ, pơmu, cây thuốc quý (đẳng sâm, sơn tra, hò thủ ô, hoài sơn, sa nhân), động vật hiếm (hổ, báo, cầy hương, lợn rừng, chó sói, sơn dương, gấu, hươu, vượn, khỉ, trăn, tê tê, đàng đẵng, ếch dát, gà lôi, nộc cốc, phượng hoàng đất) cùng nhiều khu rừng cho lâm, đặc sản (cọ, măng, song, móc, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè).
3. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản Yên Bái khá đa dạng, hiện đã điều tra 257 điểm mỏ khoáng sản, xếp vào các nhóm khoáng sản năng lượng, khoáng sản vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản kim loại và nhóm nước khoáng. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm các loại than nâu, than Antraxit, đá chứa dầu, than bùn…; loại than nâu và than lửa dài tập trung ở ven sông Hồng, sông Chảy và các thung lũng bồn địa như Phù Nham (Văn Chấn). Nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát sỏi…được phân bố rộng rãi trên khắp địa bàn tỉnh. Nhóm khoáng chất công nghiệp gồm đầy đủ các nguyên liệu công nghiệp từ nguyên liệu phân bón, nguyên liệu hoá chất, nguyên liệu kỹ thuật, đặc biệt là đá quý và bán đá quý được phân bố chủ yếu ở Lục Yên và Yên Bình. Nhóm khoáng sản kim loại có đủ các loại từ kim loại đen (sắt) đến kim loại nâu (đồng, chì, kẽm) và kim loại quý (vàng), đất hiếm phân bố chủ yếu ở hữu ngạn sông Hồng. Nhóm nước khoáng được phân bố chủ yếu ở vùng phía tây của tỉnh (Văn Chấn, Trạm Tấu), bước đầu được sử dụng tắm chữa bệnh.
II. Tiềm năng kinh tế
1. Những lĩnh vực kinh tế lợi thế
Yên Bái có lợi thế để phát triển ngành nông – lâm sản gắn với vùng nguyên liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh, fenspat, bột cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, sứ kỹ thuật, sứ dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng khác.
2. Tiềm năng du lịch
Yên Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp: hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ…Tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện để kết hợp phát triển du lịch sinh thái.